Một đàng là giới răn Chúa – một đàng là bản chất con người. Cả hai đều là sản phẩm của tạo dựng. Và dù vậy, ai cũng có thể thấy cả hai khó mà hợp với nhau. Đã là con người thì không tránh được làm sai, nghĩ quấy. Mâu thuẫn này luôn đưa ta vào một hoàn cảnh, trong đó ta cảm thấy quá sức mình. Đức tin Ki-tô giáo xác tín rằng, có một bất ổn nào đó trong cuộc tạo dựng. Con người đã không còn tốt đẹp như khi họ vừa thoát thân từ bàn tay Tạo hoá. Bên cạnh khuynh hướng tạo dựng quy về Chúa, giờ đây họ bị một yếu tố khác đè nặng, đó là khuynh hướng rời xa Chúa. Con người, vì thế, bị dằng co giữa nguyên tính và cái gia tài lịch sử của nó. Tiềm năng xa rời Chúa đó vốn đã được Tạo hoá cài sẵn trong lòng thụ tạo mang bản chất hữu hạn, nhưng lịch sử đã biến tiềm năng đó thành khả năng. Một đàng, con người được tạo ra cho tình yêu. Con người hiện diện để quên đi chính mình và cho mình đi. Nhưng, đàng khác, nó lại từ chối cho đi, mà chỉ muốn ôm vào một mình. Bẩm tính đó gia tăng, khiến nó một mặt yêu Chúa, mặt khác bực bội và đã có thể nói với Ngài: tôi muốn độc lập, tôi chỉ muốn là tôi mà thôi. Nếu tỉnh thức tự soi mình, chúng ta cũng có thể thấy cái mâu thuẫn, cái căng thẳng nội tâm của cuộc sống. Một đàng, chúng ta công nhận những gì viết ra trong mười giới răn là đúng. Đó là những điều ta muốn có và chúng tạo niềm vui cho ta. Cụ thể là đối xử tốt với tha nhân, biết ơn người, tôn trọng tài sản kẻ khác, yêu sự thật, không nói dối, muốn một tình yêu đầy trách nhiệm suốt đời với người phối ngẫu. Đó là một chiều hướng, một cách nào đó, không phải chỉ ngược với ta và như một ách nặng đè trên vai ta. Mặt khác, ta nhận thấy cái nhột nhạt, và cũng muốn tránh nó. Đó là tính thích gây sự, thích nói dối, chước cám dỗ hoài nghi – tất cả những thứ đó nẩy sinh từ một khuynh hướng tiêu diệt, một ý chí chống đối, cũng đã nằm sẵn trong con người. Cái nghịch lí đó cho thấy có một trục trặc trong nội tâm con người, khiến con người không thể trở nên được như nó muốn. Tôi thấy cái này tốt và muốn làm, nhưng lại làm cái khác, thi-sĩ Ovid người Rô-ma xưa đã nói như thế. Và Phao-lô trong chương 7 thư gởi giáo đoàn Rô-ma cũng đã viết : Cái tốt tôi muốn, tôi lại không làm ; và cái xấu mà thực tình tôi không muốn, thì tôi lại làm. Phao-lô cuối cùng đã kêu lên : Ai sẽ cứu tôi khỏi cái mâu thuẫn tâm hồn này đây !? Và chính nhờ điểm này Phao-lô đã hiểu ra một cách đúng đắn về Đức Ki-tô – và cũng từ điểm đó mà Phao-lô đã loan báo Đức Ki-tô như là một lời giải cứu độ ra cho thế giới ngoại giáo thời đó. Tuy nhiên, cũng có một mâu thuẫn khó hiểu. Đó là mâu thuẫn giữa Tin Mừng về một Thiên Chúa được coi là nhân hậu, « thương yêu », và tình trạng thực tế đau buồn của thế giới. Hậu quả là người ta thất vọng về Chúa. Nhiều người chẳng nhìn ra được chút gì gọi là tác động cứu độ của Ngài. Và đôi lúc tôi cũng nghĩ, đức tin có lẽ không còn phù hợp với khả năng hiểu biết càng ngày càng tiến xa của ta. Nó không thể chịu nổi nguồn sáng chói chang của các thực tế. Ở đây, mâu thuẫn nội tâm, mà chúng ta vừa nói tới, gặp thêm một yếu tố tập thể. Có một ý thứctập thể làm cho mâu thuẫn thêm gia trọng. Ý thứcđó công nhận khuynh hướng ích kỉ muốn quay mặt lại với Chúa là đúng, và nó chỉ cho ta những lối sống mà lúc này đây xem ra thoải mái. Nhưng mỗi người không chỉ sống cho riêng mình, mà còn sống cùng, nó biến đổi theo tập thể hoặc bị tập thể lèo lái, làm biến chất. Có nhiều cấp độ khác nhau về tình trạng đi xuống hoặc cả đi lên của cộng đồng. Cộng đồng có thể nâng đỡ và dẫn dắt tôi, để các mâu thuẫn trong tôi từ từ giảm đi hoặc biến mất. Trái lại, cũng có cái gọi là tập thể bình quân, bảo rằng, ờ thì người khác cũng làm như thế. Đó là những cộng đồng, trong đó ăn cắp trở thành bình thường, tham nhũng thành đương nhiên và dối trá là chuyện thường tình. Cộng đồng có thể kéo con người càng ngày càng đi xuống – hoặc giúp nó đi lên. Trong trường hợp đầu, vật chất và lối nghĩ thuần vật chất làm chủ, khiến ta coi những điều khác, những gì cao hơn chủ nghĩa vật chất đó là cổ hủ, vô lí, chỉ tổ gây khó chịu cho con người. Trong trường hợp thứ hai, có một sự hiện diện đương nhiên nào đó của Chúa trong xã hội, và con người dễ hướng lên cùng Ngài hơn. Nhưng một cuộc sống nhẹ nhàng, thoải mái và đầy lạc thú có phải tốt hơn không? Dĩ nhiên một cuộc sống thoả thê với vật chất, với cái có thể nắm bắt được, với những cảm giác vui thú có thể mua hay sắm được, trước mắt xem ra đơn giản hơn. Tôi có thể vào một cửa hàng vui chơi, trả tiền vô cửa và có ngay một cuộc lên đồng, nhờ đó quên đi mọi khó nhọc của con đường thành nhân và tự chế. Cám dỗ này vô cùng lớn. Cả hạnh phúc ở đây cũng đã trở thành một món hàng có thể mua bán. Con đường này nhanh hơn, thoải mái hơn, mâu thuẫn tâm hồn xem ra được giải quyết – bởi chẳng cần bận tâm gì tới câu hỏi về Chúa nữa. Nhưng người ta cũng có thể xem lối sống đó là văn minh, tân tiến và hoàn toàn phù hợp với thế giới tiến bộ ngày nay. Nhưng ta cũng sớm nhận ra đó là một dối gạt. Cá nhân ta cuối cùng sẽ thấy mình trống rỗng, cháy rụi, và khi hết cơn lên đồng trở về với thực tại, ta đâm ra giận mình và thế giới. Trễ nhất là vào lúc đó, cảm giác bị lừa đến với ta. Đúng, là bi kịch nội tâm của ta chẳng bao giờ do riêng ta giải quyết, mà nó được giải quyết trong khuôn khổ cái chúng-tôi chung. Khuôn khổ tập thể đó có thể làm cho đời ta thêm khó khăn hay trở nên nhẹ nhàng. Vì lẽ đó, trong Giáo Hội sơ khai, người ta đã lập ra lớp giáo lýnhập đạo. Mục đích là để tạo nên một loại cộng đồng thay thế, trong đó người ta có thể làm quen với Chúa, và qua việc chung sống với kẻ khác, người ta dần bước vào được môi trường có thể học nhìn thấy Chúa. Từ đó cho tới lúc rửa tội – rửa tội còn được gọi là giác ngộ - sự hiểu biết về Chúa bắt đầu lớn lên trong cá nhân, và nhờ vậy, người đó giờ đây có thể tự lập trong cuộc sống đức tin. Tôi nghĩ, trong thế giới hướng về vô thần, hoài nghi và vật chất ngày nay, mô thức trên lại trở nên cần thiết. Trước đây, xem ra Giáo Hội và xã hội gần như làm một với nhau. Giờ đây, Giáo Hội lại phải nỗ lực làm sao để trở thành một nơi cho con người tìm tới, nơi đó không những có chỗ cho cái chúng-tôi đang gặp khó khăn hay đang xuống cấp, mà cả cái chúng-tôi đang mở ra để đón nhận từng cá nhân và giúp họ tập nhìn ra Chúa. Vấn đề là liệu đức tin có thật sự làm cho ta tốt hơn, nhân từ hơn, yêu người hơn, bớt tham-lam hơn, bớt tự-phụ hơn không. Hãy nhìn vào những người đã được chính Chúa kêu-mời tin, những kẻ xem ra chẳng mong gì hơn là được sống đẹp lòng Chúa và trở thành những con người toàn hảo. Tại sao cả trong số các giáo sĩ, các tu sĩ nam nữ lại có nhiều đố kị, tị hiềm, ghen tương, dối trá và thiếu bác ái với nhau đến thế ? Tại sao đức tin không làm cho họ tốt hơn ? Một câu hỏi quả thật nhức nhối. Qua đó ta lại thấy rằng đức tin không đơn giản có sẵn đó, nó không đứng yên, nhưng có thể lớn ra hoặc teo lại. Nó không đơn giản là một bảo chứng thành toàn, một thứ nguồn vốn giờ đây chỉ còn đợi thu lãi. Đức tin luôn được đổ vào một bình tự do rất dễ vỡ. Ta mong mọi chuyện phải khác đi. Nhưng Chúa lại có cái liều lĩnh thật khó hiểu, là Ngài đã không cho ta một liều thuốc mạnh hơn. Mà ngay cả khi ta phải chứng kiến những thiếu sót trong thế giới kẻ tin (dĩ nhiên đó cũng là hậu quả của sự suy yếu đức tin), ta cũng không được quên mặt tích cực của nó. Đọc chuyện của biết bao người đơn sơ, tốt lành, những kẻ đã được đức tin làm cho tốt hơn, ta thấy rõ là đức tin đã tác động một cách rất tích cực. Tôi đặc biệt nghĩ tới những người lớn tuổi trong các xứ đạo bình thường, đức tin đã làm cho họ chín muồi nhân ái. Gặp gỡ họ, tôi thấy toát lên sự ấm cúng, toả ra một thứ ánh sáng nội tâm. Và ngược lại, chúng ta cũng phải công nhận là, với đà bốc hơi của đức tin, xã hội càng ngày càng xơ cứng, bạo lực và hung dữ ra. Bầu khí chẳng tốt hơn, nhưng càng ngày càng kích động và ác độc hơn, ngay cả một nhà thần học thích phản kháng như Vorgrimler cũng đã nhận xét như thế.
|